Tết Sài Gòn xưa trong mắt ký giả xứ Bắc

Người Sài Gòn không ăn Tết lòng vòng

Không phải đợi đến thế kỷ 21, từ những năm 30 của thế kỷ trước, mỗi khi Tết về, Sài Gòn vắng hoe vì hầu hết người dân đều về quê. Ký giả Yên Sơn đã ngạc nhiên: “Tết Nguyên đán đáng lẽ ở nơi đô hội như Sài Gòn thì phải vui vẻ, mà sự không ngờ, Sài Gòn chỉ được vui vẻ ồn ào trong mấy ngày trước Tết vì nhờ có cảnh buôn bán tấp nập, người đi sắm Tết, kẻ đi coi người ở chung quanh chợ Bến Thành là nơi xưa nay đã có tiếng đông vui nhất, chớ không phải riêng gì ngày Tết mới đông vui. Ba ngày Tết ở Sài Gòn có phần buồn hơn ở lục tỉnh vì phần đông những người làm ăn ở Sài Gòn đều là quê quán ở lục tỉnh nên cứ đến ngày Tết họ mới rủ nhau tản mát mỗi người đi một nơi…

Người Nam được cái tính tốt là không tin dị đoan mà cho có tin cũng là số ít. Ngày Tết họ không có lệ kiêng như sợ xấu vía tới xông nhà người quen để người ta phải rông cả năm. Đến sự chúc mừng của họ cũng giản dị và thành thực, nói ít mà có nghĩa lý dễ nghe hơn ngoài Bắc.

Ngoài ra, không kể giàu nghèo, trước cửa nhà nào cũng trồng trong chậu hoặc dưới đất những cây cúc vạn thọ vàng thẫm hoặc mào gà đỏ chóe.

... Còn đồ ăn Tết, trừ cơm rượu thịt bánh ra thì có hai món khác hẳn ngoài Bắc ta là rưa (dưa) hấu và nước tranh (chanh). Đi thăm người quen ngày Tết mà không ăn uống gì lót lòng trước, tới chơi chừng mười nhà, mỗi nhà họ ép mời một khúc rưa và một cốc nước tranh cũng đủ no đầy bụng”.

Ông nhận xét: “Anh em Nam Kỳ theo Tây không hội hè, đồng bóng, không ăn Tết lòng vòng và lễ chùa luôn trong ba tháng xuân như ngoài Bắc. Tết Đoan ngọ và tết tháng Tám đối với họ thật là chẳng có quan niệm gì nên họ đã gần muốn bỏ”.

Múa rồng ngày Tết.

Giỗ chỉ khấn thầm

Phụ nữ Nam kỳ ban đầu lại khiến ông… thất vọng. Không phải về nhan sắc, mà vì hầu như ai cũng xỉa răng bằng thuốc như thuốc lào ngoài Bắc, ngậm và xỉa khá luộm thuộm, trông như bị sưng môi, vẩu răng.

Khi dự đám giỗ, ông tưởng Nam, Bắc cúng kiến, lễ bái giống nhau. Nhưng người Nam cúng đơn giản và ít tốn kém hơn, lại không có lệ mời người quen trừ anh em, bà con trong họ. Lời khấn vái thì nôm na, rõ ràng: “không lầm rầm, nhỏ to, lôi thôi như ngoài ta”. Cách mời bà con đến cũng khác, đại khái: “Ngày hôm nay nhà có cúng kỵ, anh em hoặc chú, cô nhớ đến giờ đó lại ăn”.

Món ăn trong Nam có một số giống ngoài Bắc như thịt kho, canh mướp, khoai tây xào thịt bò, canh hoa hiên nấu giò... Khi vo gạo thì đổ gạo và nước vào nồi đất có quai xách như cái xoong, gọi là “tay cầm” rồi lấy tay vò bóp chứ không vo bằng “giá” (rá?). Ông thấy không nhà nào nấu cơm bằng nồi đồng hoặc nồi đất như ngoài Bắc, chỉ nấu bằng “tay cầm” hoặc nồi gang.

Lúc mới vô, ăn không quen nên ông nhờ nấu món Bắc như rau muống, phải dặn kỹ là luộc vì trong Nam chỉ quen ăn xào, ít ăn lá chỉ dùng cuống. Sau vì tò mò, ông ăn thử món Nam. Lúc đầu không ngon miệng, sau vài lần thấy ngon, như món mít hầm thịt, canh mì.

Xin xăm ngày Tết ở Lăng Ông, Gia Định.

Đất cải lương và thể thao

Lúc đó, sân khấu cải lương ở miền Nam đang thời thạnh trị. Nhờ nó mà sáu, bảy ngàn người có cơm ăn, áo mặc và một số thành danh, giàu có. Có trên mười gánh, nổi nhất là Trần Đắt, Phước Cương, Tân Hí Ban và Tân Thinh. Các gánh thường đi hát ở lục tỉnh, mỗi nơi vài bữa hoặc một tuần là quay về Sài Gòn, nơi kiếm tiền nhiều nhất. Nhờ vậy họ mới dám thuê nhà hát Tây rộng rãi, sang trọng dù rất đắt.

Chủ gánh ở Nam kỳ thường có học và sẵn tiền vì lập gánh tốn bạc triệu. Gánh Huỳnh Kỳ lúc mới lập dám bỏ mấy ngàn đồng Đông Dương để chuộc cô Phùng Há từ Tân Hí Ban về. Phải sắm áo quần, mua thuyền lớn để chở đồ đạc, đào kép đi diễn, phải mua phông cảnh sơn thủy tại Pháp, trả lương cao cho nghệ sĩ giỏi như Năm Châu, Bảy Nhiêu, Tư Chơi, Năm Phỉ... Chi phí cao như vậy nên các gánh hát chỉ thích hát tại Sài Gòn.

Về thể thao, “thanh niên Nam kỳ đã có tiếng hâm mộ thể thao nên không Chủ nhật nào là không có cuộc thi đá bóng hoặc chơi quần vợt. Họ tập luyện sốt sắng hơn ngoài ta (Bắc) thì lẽ tự nhiên là họ phải có nhiều tay chiếm giải quán quân như Chim, Giao”. Phụ nữ trong Nam không tập luyện thể thao vì sợ dư luận chỉ trích như ngoài Bắc. Việc lái xe hơi lại là “sự thường” với họ, “Hễ nhà nào chồng có xe hơi thì vợ biết cầm tay lái”.

Ăn bận Tây hóa nhưng…

Đàn ông đi làm cho Tây đều bận âu phục. Quốc phục chỉ dành cho mấy cụ phán già và hương chức. Quốc phục trong Nam khác miền Bắc: khăn ít nếp hơn, nhỏ vành, bên trên có miếng nhiễu che tóc phòng bụi cát ngoài đường. Ai đi làm thì bận áo xuyến Sài Gòn hoặc satin trơn. Bên trong không bận áo trắng dài mà áo trắng ngắn, cồn là cứng để dựng cổ áo đen ở ngoài. Áo gấm là xa xỉ phẩm, chỉ những ông có máu mặt như chủ quận, đốc phủ sứ mới bận trong dịp lễ Tết.

Anh em thợ thuyền ăn mặc khác dân thầy ở cái quần lĩnh hoặc lụa đen. Dân nghèo bận quần áo cánh vải đen. Ông không thích đàn ông về nhà thì bận xà rông mà ông gọi là chăn, thứ chỉ nên bận trong khi tắm, ngủ hoặc thay quần áo.

Người nào bận quần áo tân thời thì đi giày “mang cá” bằng da trăn hoặc nhung giắt cườm ngũ sắc, cổ quàng khăn san trùm kín tóc, chỉ lộ mặt. Khăn bằng lụa mỏng màu hồng hoặc vàng, quàng hoặc vắt ở cổ, hai dải đầu bay phất phới trước ngực. Cổ áo các bà nhà giàu gài kim bằng vàng hoặc cánh hoa đào, tay đeo vòng vàng chạm trổ nhiều kiểu và cẩm thạch xanh mắc tiền. Cổ đeo dây chuyền sợi nhỏ có trái tim hoặc khuôn ảnh bằng vàng.

Về tóc, dù giàu hay nghèo, người nào sau búi tóc cũng gài cái lấy ráy tai, giàu thì bằng vàng, nghèo thì bằng bạc hoặc đồng.

Khi ra đường, họ che dù nhiều kiểu, nhiều màu. Riêng người bán hàng rong hoặc làm thuê, gánh mướn bao giờ trên vai cũng vắt cái khăn lau mặt, rộng và dài, có kẻ sọc để trùm đầu khi ra nắng, hoặc lau tay, lau mặt sau khi rửa mặt.

Theo ông, thời điểm đó người Bắc vào Nam làm ăn đã đông dần và đến khi đường xe lửa Hà Nội-Sài Gòn thông suốt thì càng đông, nên “cái gì ta cần phải biết, ta lại chưa biết, tự nhiên ta gặp dịp muốn biết, sao ta lại chẳng muốn biết?”.

______________________________

* Các trích dẫn nằm trong “Phong tục và tiếng nói Nam kỳ” trênHà Thành Ngọ Báo số 1715, 1718 và 1719 năm 1933.

Tranh trích trong bộ tranh Monographie dessinée de l’Indochine (Chuyên khảo có minh họa về Đông Dương) xuất bản năm 1935 do học sinh trường Vẽ Gia Định thực hiện.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm