Gian nan bảo vệ giá trị một vương triều - Bài 1

Phế tích cố đô Huế được cấp cứu kịp thời

LTS: Cách mạng Tháng Tám thành công đã kết thúc 143 năm trị vì của vương triều nhà Nguyễn, biến vương triều này thành triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử dân tộc. Trên một góc độ khác của lịch sử, sự cáo chung của triều Nguyễn cũng chính là khởi đầu giai đoạn suy thoái của quần thể di tích cố đô Huế.

Công cuộc bảo tồn quần thể di tích cố đô Huế nhiều năm nay được ví như một “cuộc chiến” để giành giật lại những giá trị vật thể và phi vật thể mang dấu ấn đặc sắc của một vương triều.

Huế có thời tiết khắc nghiệt, thiên tai lũ lụt triền miên cộng thêm sự tàn phá khốc liệt của hai cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ và cả sự vô tình của con người trong cuộc sống mưu sinh đã khiến cho quần thể di tích cố đô Huế bị hư hại, nhiều công trình bị xóa sổ.

Hơn 30… chuồng heo trong Đại nội

“Sau khi thất thủ, kinh đô bị thực dân Pháp đô hộ, thực chất triều Nguyễn đã mất quyền quản lý nhà nước toàn diện. Thời điểm này, nhiều kiến trúc kinh thành Huế xuống cấp nghiêm trọng, nhiều nhà vua không có điều kiện để tu bổ vì việc thu thuế do Pháp quản lý, triều Nguyễn chỉ nắm một phần nhỏ trong đó. Khi không đủ khả năng giữ gìn thì các vua nhà Nguyễn đã triệt giải một số công trình xuống cấp nghiêm trọng. Tuy nhiên, những cái còn được giữ lại là rất có giá trị” - ông Nguyễn Xuân Hoa, cựu giám đốc Sở Văn hóa-Thông tin (nay là Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Thừa Thiên-Huế), nói.

Ngoài việc các công trình xuống cấp do triều đình nhà Nguyễn không có khả năng trùng tu thì nguyên nhân khiến các công trình bị phá hủy lớn nhất là do hậu quả tàn phá của chiến tranh. Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa thông tin nghiêm trọng nhất là năm Mậu Thân 1968, Đại nội bị bom đạn tàn phá rất nặng nề. Bên cạnh Đại nội thì lăng tẩm các vị vua như lăng Gia Long cũng bị tàn phá hết sức nghiêm trọng.

Theo ông Trần Đức Anh Sơn, toàn bộ quần thể di tích cố đô Huế sau chiến tranh còn khoảng 300 công trình lớn nhỏ bao gồm thành quách, cung điện, đền miếu, lầu gác, lăng mộ, cầu cống, đình tạ... hầu hết đều bị hư hỏng ở những mức độ khác nhau hoặc bị dột nát, nứt vỡ bờ nóc, bờ quyết, các cấu kiện chịu lực mục ruỗng, nhiều công trình hư hỏng nghiêm trọng, có nguy cơ đổ sụp vào bất kỳ lúc nào. 42 ha tường thành bị cây cỏ xâm thực, 100.000 m3 ao hồ cần được nạo vét, 33 cầu cống và 20 km đường đi trong các di tích bị hư hại nặng cần phải tu sửa cấp thiết.

Sau thống nhất đất nước, lịch sử dân tộc đã sang trang nhưng số phận của di tích Huế không phải đã khả quan ngay. Với cái nhìn định kiến của một số người bấy giờ, quần thể di tích cố đô Huế được cho là tàn dư của chế độ cũ nên tiếp tục bị lãng quên. Các công trình kiến trúc được đưa vào sử dụng với những mục đích tùy tiện.

Đại nội Huế thu hút đông du khách đến tham quan. Ảnh: N.DO

“Vào thời điểm đó, để tận dụng tất cả đất cho sản xuất, quảng trường Ngọ môn được người dân phát động trồng sắn, trồng khoai. Nhiều công trình kiến trúc triều Nguyễn được tận dụng làm các cơ sở, cơ quan hoạt động như xí nghiệp in nằm ngay trong Đại nội, Trường Văn hóa Nghệ thuật nằm ở Văn Thánh, Câu lạc bộ Lao Động nằm ở cung An Định. Thời điểm tôi còn làm việc tại UBND TP, khi người dân phản ánh, chúng tôi vào khảo sát thì trong Đại nội có trên 30… chuồng heo, vì khu tập thể ở đó nên họ chăn nuôi trong đó để phục vụ cho đời sống” - ông Nguyễn Xuân Hoa nói.

Từ phế tích trở thành di sản văn hóa thế giới

Theo ông Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, cuộc vận động quốc tế do UNESCO phát động tuy không đạt được mục tiêu đề ra nhưng với những khoản viện trợ đa dạng dành cho di tích Huế trong các năm 1981-1990, cùng với những nỗ lực của chính phủ Việt Nam, đã là những thang thuốc cấp thời góp phần vào việc chạy chữa bước đầu, tránh cho di tích Huế thoát khỏi hiểm họa bị sụp đổ.

Tại Huế, sự ra đời của Công ty Quản lý di tích và danh thắng Huế (từ tháng 5-1992, đổi tên thành Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế) để quản lý, bảo tồn và khai thác toàn diện quần thể di tích cố đô Huế và các di sản phi vật thể liên quan là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, đánh dấu sự thay đổi nhận thức hoàn toàn về các giá trị của di sản văn hóa Huế. Với những nỗ lực to lớn của trung tâm, thông qua sự giúp đỡ, hướng dẫn của các chuyên gia UNESCO, trong hai năm 1992-1993, bộ hồ sơ về quần thể di tích cố đô Huế đã được hoàn tất và đệ trình lên Hội đồng Di sản Thế giới thuộc UNESCO. Và ngày 11-12-1993 - ngày đặc biệt đánh dấu di tích Huế bước sang một trang mới khi UNESCO công nhận di tích Huế là di sản văn hóa thế giới.

“Tuy nhiên, thời gian này chúng ta vẫn còn rất khó khăn, còn đang bị Mỹ cấm vận. Mặc dù UNESCO đã công nhận nhưng không ai dám tài trợ cho di tích Huế trong việc bảo tồn. Thời tôi còn làm phó giám đốc Sở Văn hóa-Thông tin thì Ngọ môn có nguy cơ sụp đổ nên chúng tôi đã vận động Nhật Bản giúp đỡ. Nhật Bản đồng ý tài trợ 100.000 USD để cứu vãn Ngọ môn nhưng về nguyên tắc không thể bàn giao trực tiếp cho chính phủ ta nên phải sử dụng biện pháp trung gian bằng cách chuyển tiền đó cho UNESCO như một quỹ đóng cho một tổ chức quốc tế, thông qua UNESCO để chuyển lại cho chúng ta” - nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa nói.

Lời kêu cứu khiến nhiều người thức tỉnh

Ngày 25-11-1981, sau chuyến thăm Huế, tổng giám đốc UNESCO lúc bấy giờ, ông Amadou Mahtar M’ Bow, đã ra lời kêu gọi cứu vãn di tích Huế. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa thì lời kêu gọi đó là một lời báo động, thức tỉnh nhận thức của nhiều người về những giá trị của kiến trúc cung đình triều Nguyễn.

“Với sự cố gắng của các tổ chức, tập thể, nhiều năm sau đó UNESCO đã đánh giá di tích Huế đã vượt qua thời cứu vãn, đã chuyển qua một thời chuẩn mực về tu bổ di sản. Bây giờ thì nó không chỉ có giá trị như một di tích thông thường mà nó thực sự như là một tài nguyên” - ông Hoa thông tin.

Theo ông Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, đến nay đã có hơn 130 công trình di tích lớn nhỏ đã được đầu tư trùng tu, bảo tồn, trong đó tiêu biểu là Ngọ môn, điện Thái Hòa, Hiển Lâm Các, cụm di tích Thế Miếu, cung Diên Thọ, Duyệt Thị Đường, cung Trường Sanh, hệ thống Trường lang (Tử Cấm Thành), lầu Tứ Phương Vô Sự, điện Long An, cung An Định,… Trong 43 năm qua, đặc biệt là 25 năm kể từ ngày di tích Huế được công nhận là di sản văn hóa vật thể, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế đã nghiên cứu, nỗ lực không ngừng nghỉ để giữ gìn và bảo tồn những giá trị kiến trúc, văn hóa của triều đình nhà Nguyễn.

“Vào tháng 11-2003, nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể. Đây là một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện tầm vóc và sự phong phú, toàn diện của di sản văn hóa Huế trên cả hai lĩnh vực văn hóa vật thể và phi vật thể” - ông Phan Thanh Hải nói.

Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế đã nghiên cứu, phục hồi một số lễ hội cung đình quan trọng nhất của triều Nguyễn. Đặc biệt là trong các dịp lễ hội Festival Huế, các loại hình nghệ thuật cung đình, bao gồm cả lễ hội, âm nhạc, nghệ thuật thư pháp, nghệ thuật ẩm thực, trò chơi… đã thực sự đóng vai trò trung tâm trong các hoạt động của Thừa Thiên-Huế, trở thành đại diện tiêu biểu của văn hóa Huế trong sự đối thoại, giao lưu với bạn bè quốc tế.

Đem về cho Huế 300 tỉ đồng

Bên cạnh việc phục hồi các giá trị của di sản thì Trung tâm Bảo tồn cố đô Huế đã khai thác và phát huy giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của di tích cố đô Huế. Đây là giải pháp tốt nhất để bảo tồn di tích, làm cho di tích sống, hòa vào cuộc sống của xã hội đương đại, có tác dụng giáo dục và nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế, tạo nguồn sinh lợi để bảo tồn di tích. Riêng tại khu di tích Huế, trong năm 2017 đã thu về hơn 300 tỉ đồng. Chính nguồn thu này đã góp phần rất quan trọng trong việc tái đầu tư cho hoạt động bảo tồn di sản và cải thiện đời sống của những người làm công tác bảo tồn.

Ông PHAN THANH HẢI,Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm