Người đi 'sưu tầm' thơ mình

Nhà thơ Hà Nhật
Nhà thơ Hà Nhật

Đi đến đâu thầy cũng được các thế hệ học trò, những người làm thơ, yêu thơ tiếp đón nồng nhiệt. Và điều lạ lùng nhất là gặp bất cứ ai, từ người bạn gái già, đến cậu học trò bây giờ là nhà thơ, quan chức, thầy cũng hỏi nhỏ : “Em còn giữ được bài thơ nào của thầy không ?”. Ấy là thầy đang đi “sưu tầm thơ mình” đấy.

Thầy bảo , thầy làm thơ từ năm 1953, tính ra có đến hàng mấy trăm bài thơ, thế mà bây giờ trong tay chỉ giữ có vài chục bài. Buồn thật. Thơ làm xong là tặng người đẹp, tặng bạn bè. Tặng được thơ coi như thoả lòng, không trông mong gì hơn.

Hơn nữa làm thơ tình như Hà Nhật thời đó được coi là “lạc lõng”, “tuyên truyền lối sống tiểu tư sản”.v.v... nên gần như phải “làm chui”, “đọc chui” cho nhau nghe bên chiếu rượu. Bây giờ muốn in một tập thơ để kỷ niệm cuộc đời, phải đi cả ngàn cây số để sưu tầm lại…

Ở Quảng Bình, những năm 60 của thế kỷ trước, có một lớp nhà thơ trẻ được nhiều người mến mộ như Hà Nhật, Xích Bích. Thơ Hà Nhật ý tứ sâu sắc, ngôn ngữ mới mẻ, không vần, tuy thầy chưa in thơ thành tập, chưa là hội viên Hội nhà văn, nhưng nhắc đến thơ Hà Nhật, nhiều nhà thơ lứa tuổi thất thập trở xuống đều yêu mến, nể trọng.

Bởi thơ Hà Nhật vừa đam mê nồng cháy, vừa trí tuệ, chất chứa. Quê cũ nghèo không lúa không khoai/ Chỉ có trời xanh và muối mặn ( Muối). Gặp nhau bây giờ/ Táo trong vườn rụng hết/ Thôi đừng nhắc nữa/ Cho lòng đau/ Nghe em (Táo). Tình anh như muối kia/ Mặn mòi và lặng lẽ/ Muối trăm đời vẫn thế/ Tình anh không có màu (Tình muối).

Ngay những bài thơ làm trong tháng 8 mới đây, Hà Nhật vẫn giữ được sự chất chứa ấy : Đền Cuông- cuông bay hết/Về chi nữa em ơi/ Cha già còn ngoảnh mặt/ Mong gì đời sửa sai! (Đền Cuông)…

Đặc biệt bài thơ “Bài thơ tình của người thuỷ thủ” của Hà Nhật được nhiều thế hệ thanh niên Quảng Bình chép vào sổ tay, coi như là tuyên ngôn sống, tuyên ngôn yêu : … Hay ở biển xa/có nụ hoa thần tìm ra hạnh phúc/ Hay có người gái đẹp/môi hồng như san hô/ Cũng không thể/khiến anh xa được em yêu/Nhưng em hỡi/Nếu có người trai chưa từng qua bão tố / chưa từng vượt qua thử thách gian lao / Lẽ nào xứng với tình em ?

Đó là một loại thơ tình mới, khác với thơ “tiền chiến”, đắm say mà gân guốc, trẻ trung.

Hà Nhật là bút danh của thầy giáo dạy văn nổi tiếng Lương Duy Cán . Ở Đồng Hới, Lệ Thủy có câu ngạn ngữ nói về hai thầy giáo dạy giỏi : “văn Cán- toán Trình”.

Lứa học sinh cấp 3 Lệ Thủy những năm 1964-1967 chúng tôi đã được học với cả hai thầy giáo ấy. Thầy Cán dạy văn giỏi và làm thơ hay nên rất nhiều thế hệ học sinh thuộc thơ thầy.

Thơ Hà Nhật khảm vào trí nhớ nhiều thế hệ độc giả Quảng Bình. Họ ngồi với thầy bên chén rượu, đọc lên, rồi chắp nối lại từ trí nhớ, thành bài thơ hoàn chỉnh. Nhờ đó mà thầy đã “sưu tầm” lại được hàng chục bài thơ đã thất lạc của mình.

Sau Hiệp định Geneve, Hà Nhật từ Huế ra Hà Nội học tiếp Đệ nhị và đỗ tú tài Toán năm 1956. Học giỏi toán nhưng lại xin thi vào sư phạm Văn. Hồi sinh viên học Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nhật thường chơi thân thơ phú với các nhà thơ, nhà văn cùng trang lứa như Phùng Quán, Nguyễn Bùi Vợi, Vân Long, Băng Sơn, Thúc Hà…

Đó là những người thuộc thế hệ trẻ của cách mạng đầu tiên làm thơ sau năm 1954 ở Hà Nội. Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi vẫn thường nhắc đến anh bạn thơ Hà Nhật dân Quảng Bình gầy đen, nhưng rất thông minh, nhạy cảm và đa tình.

Từ năm 1956, khi mới chưa đầy 20 tuổi, Hà Nhật đã có những bài thơ Đợi đò, Mưa Huế rất sắc sảo. Trong bài Mưa Huế, hình bóng những cô gái Huế rất đẹp: Dáng gầy như cỏ cây quê mẹ / Giếng tình thăm thẳm mắt không vơi…” .

Năm 1959, tốt nghiệp Khoa Văn Đại học Sư phạm (vào thời đó hiếm lắm) nhưng Hà Nhật không được bố trí dạy cấp 3, bị “phát vãng” về dạy cấp 2 ở Diễn Châu , Nghệ An ba năm liền.

Vì thế khi làm xong “Bài thơ tình của người thuỷ thủ”, thầy sợ không ký tên Hà Nhật mà ký tên là Mai Liêm gửi báo ở Hà Nội, lấy địa chỉ liên lạc của một người chị bà con bên mẹ là Chiến đang học ở Trường cấp 3 Đồng Hới (sau này thành vợ nhà thơ Hải Bằng).

Khi báo đăng bài thơ, nhạc sĩ Hoàng Vân phổ nhạc, nhưng không đề “phổ thơ Mai Liêm”. Bài hát “Tình ca người thủy thủ” lập tức được công chúng thanh niên cả nước đón nhận nồng nhiệt. Cho đến hôm nay, trên Đài phát thanh, trên tivi, nhiều ca sĩ vẫn hát “Tình ca người thủy thủ”…

Cái bút danh “Mai Liêm” ấy không chỉ đề ở “Bài thơ tình của người thủy thủ”, mà thầy còn ký ở rất nhiều bài thơ khác. Làm được thơ, chép gửi cho báo, ở tỉnh lẻ mù thông tin, không biết có được đăng hay không, nhuận bút , báo biếu cũng không có.

Thế là mất luôn thơ. Tôi nghĩ, nếu lục tìm trong các kho lưu trữ báo chí thời 1956- 1965 của Thư viện Quốc Gia, chắc cũng có thể tìm thêm được nhiều bài thơ của Hà Nhật...

Năm 1964, thầy Hà Nhật về dạy ở cấp 3 Lệ Thủy, cũng là năm chúng tôi vào học cấp 3. Thầy Hà Nhật và thầy giáo trẻ Phan Ngọc Thu đã truyền cho lớp chúng tôi một không khí yêu thơ, làm thơ rừng rực từ đấy. Hồi đó cả lớp tôi làm thơ. Lớp tôi có tờ báo tường chuyên in sáng tác mới, nhiều nhất là thơ.

Cái lớp cấp ba Lệ Thủy của chúng tôi ấy đến bây giờ có hàng chục người làm thơ, nhiều người đã thành danh như Lâm Thị Mỹ Dạ, Hải Kỳ, Đỗ Hoàng, Lê Đình Ty v.v...

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo có bài viết in báo “ Một lớp -2 thầy- 5 thi sĩ” là viết về thầy trò chúng tôi ngày ấy. Bây giờ thầy 70, trò đứa nào cũng xấp xỉ 60 cả rồi, mà gặp nhau là đọc thơ suốt đêm.

Thơ Hà Nhật bị thất tán nhiều cũng do thi sĩ rất thích xê dịch, tính lãng tử . Ai rủ đi chơi đâu là đi ngay. Đi thâm đêm thâm ngày. Có chén rượu vào, có người đẹp thì đọc thơ suốt đêm. Những ngày dạy học ở Diễn Châu, Nghệ An, nhờ chất lãng tử đó mà thầy có thơ hay.

Thầy kể rằng, hồi năm 1962, đang dạy học ở Nghệ An, nhân mấy ngày nghỉ, có mấy người ngư dân đi vận chuyển hàng hoá trên biển, rủ thầy đi về quê bằng thuyền với họ.

Từ Nghệ An vào Đồng Hới đi đường bộ thời đó cũng chỉ một ngày, đi đường biển thì lâu hơn. Nhưng tính thầy thích ngao du, chuộng lạ. Thế là thầy lênh đênh trên biển với ngư dân ba ngày ba đêm ròng.

Say sóng ngất ngưởng, nôn ra mật xanh mật vàng, nhưng đổi lại thầy làm được hai “Bài thơ tình của người thủy thủ” thật hay. Bài đầu có tứ rất “độc” :

Em hỏi tôi nước biển màu gì?

Tôi người thủy thủ từng lênh đênh năm tháng

Tôi sẽ nói cùng em

Nước biển dịu dàng, bí mật và cuồng nộ

Cũng như màu đôi mắt của em

Song dẫu thế nào tôi cũng sẽ đến bên em

Và tôi sẽ làm cho đôi mắt em xao động

Như gió ngày ngày đưa sóng về trên biển lặng

Mới hay, thơ hay cũng chính là nết đất, hồn người.

Những năm tháng đó Hà Nhật làm nhiều thơ tình, thơ thế sự. Làm xong đọc cho bạn bè nghe, rồi ai giữ thì giữ, thầy cũng chẳng giữ cho riêng mình.

Bởi thế mà chuyến thầy về Đồng Hới vừa rồi, có anh học trò cũ còn đọc cho thầy nghe cả một đoạn dài trường ca thầy viết từ 40 năm trước. Các nhà thơ Lê Đình Ty, Mai Văn Hoan cũng “sưu tầm” cho thầy được mấy bài.

Vì thích lãng du , thích xê dịch, nên sau năm 1972, một nửa Quảng Trị được giải phóng là Hà Nhật đạp xe ngay vào Đông Hà, rồi cùng ông bạn thơ đồng tuế Hoàng Phủ Ngọc Tường ngao du mấy ngày đêm miên man trên đất Quảng Trị còn nóng bỏng lửa bom.

Bởi thế mà chuyến ra miền Trung “sưu tầm thơ”, gặp lại Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hà Nhật đã có thơ tặng rưng rưng: Hãy cạn ly đi Tường ơi/ Không uống được vào môi/ Thì nhấp bằng mắt vậy/ Để ta nhớ một thời sôi nổi / Ngang dọc hai ta một dải đất gió Lào (Uống rượu với Tường).

Sau ngày giải phóng miền Nam năm 1975, máu lãng du lại thôi thúc Hà Nhật tìm về phương Nam đất nước. Chuyến “Hành phương Nam” ấy thầy về dạy học ở Phan Rang, Phan Thiết một thời gian, rồi vào Sài Gòn làm giảng viên Trường Cao đẳng Sư phạm.

Xê dịch và thơ. Thơ và xê dịch. Tài hoa có cánh, giảng văn như hút hồn học trò, ấy thế mà mãi đến tuổi 42 mới chịu khép vào “khuôn khổ gia đình” ! Dạy học kiếm sống, nhưng cuộc đời thầy luôn luôn gắn với thơ.

Thầy Lương Duy Cán viết sách bình giảng thơ cho Nhà xuất bản, làm người bình thơ cho Chương trình Văn nghệ Đài truyền hình, bình thơ cho các báo v.v...

Nhiều thế hệ học sinh Thành phố Hồ Chí Minh không quên được những buổi bình giảng thơ hấp dẫn của thầy giáo Lương Duy Cán…

Ngẫm ra, thơ mỗi nhà thơ đều có số phận riêng của mình, có sức trường tồn riêng của mình, nếu đó là nhà thơ đích thực.

Thơ Hà Nhật không được in nhiều, không in thành sách, không đưa vào dạy trong nhà trường, thế mà bao thế hệ thanh niên miền Trung vẫn truyền, vẫn thuộc, để hôm nay chép lại cho nhà thơ in cuốn sách quan trọng nhất của đời mình: Thơ Hà Nhật ! Âu đó cũng là ân nghĩa của cuộc đời dành cho những người tri âm, tri kỷ…

NGÔ MINH - (Theo Tiền Phong)

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm