TRUYỆN DÀI KỲ TRÊN BÁO CHÍ SÀI GÒN TRƯỚC 1975 - BÀI 2

Dấu ấn một thời

Vì phải viết cho nhiều tờ báo trong một ngày nên một số ít nhà văn viết truyện dài kỳ (TDK) đã nhờ người viết thuê ẩn danh để họ ký tên. Theo nhà văn Vũ Bằng, Lê Văn Trương và chính ông cũng nhờ người viết thuê rồi đứng tên là tác giả.

Những người “tiên phong”

Một trong những tác giả viết TDK xưa của Sài Gòn là Hồ Biểu Chánh với những bộ truyện nổi tiếng Tỉnh mộng, Cay đắng mùi đời viết năm 1923. Tiếp đến là Phú Đức với những bộ truyện đúng kiểu tiểu thuyết phơi-dơ-tông như Châu về hiệp phố viết năm 1926, Căn nhà bí mật viết năm 1929, Tình trường huyết lệ viết năm 1930...

Phú Đức là người chiếm kỷ lục viết TDK cho năm tờ báo một ngày. Ông dàn trải mối tình thơ mộng của mình bằng TDK đầu tiên mang tên Câu chuyện canh trường trên báo Trung Lập vào năm 1924. Ai dè từ đây Phú Đức tiếp tục viết Căn nhà bí mật, Châu về hiệp phố. Cả hai bộ TDK này đã mang lại cho báo Trung Lập số độc giả kỷ lục. Sau đó ông được mời về báo Công Luận làm chủ bút, ăn lương ngang với Đốc Phủ Sứ nhưng chỉ có việc duy nhất là viết TDK Tiểu anh hùng Võ Kiết rồi ngồi xe hơi hút xì-gà rong chơi với các người đẹp ái mộ.

Có thời gian Phú Đức làm việc như công chức, đúng giờ, đúng khắc. Mỗi buổi sáng ông đến nhà một bạn làng văn, đóng đô ở đó viết cho đến xế trưa là đã xong số lượng trang viết cho các tờ báo đang chờ bản thảo được quảng cáo là “…Đứa con tinh thần mà tác giả đắc ý nhất, sau bao nhiêu năm dày công thai nghén một cốt truyện ly kỳ, rùng rợn, quyết làm cho độc giả càng đọc càng mê say, cảm động… Nhưng thật ra những đứa con tinh thần này chính là những TDK đã đăng trên Trung LậpCông Luận rồi được ông xào nấu lại. Hậu quả là năm 1952, một tuần báo đã viết bài với cái tít giật gân là Phú Đức: “Tiểu thuyết gia bổn cũ soạn lại”.

Thời đó, người viết TDK đứng sau Phú Đức là Nam Đình, người được tặng danh hiệu là “Đại hải trường giang”. Từ TDK Bà lớn qua Cháu bà lớn rồi Cô Bạch Mai tới Cháu Ngọc Nam Đình đã cứu tờ Thần Chung đang từ chỗ sắp đình bản vươn lên thứ hạng nhất nhì lúc đó. Trước đó thì có Kòn Trô (1941), Sương gió biên thùy (1948) của nhà văn Lý Văn Sâm.

Văn tài nam, nữ như nhau

Nếu bên Thần ChungCô Bạch Mai thì năm 1952 bên Sài Gòn Mới của bà Bút Trà xuất hiện Bên dòng sông Trẹm của cây bút mới toanh Dương Hà. Do nổi tiếng nên truyện được xuất bản thành sách ngay sau khi đăng hết trên báo. Không thua kém, bên báo Tiếng Chuông xuất hiện Ngọc Sơn với những TDK Ngày về, Hồng và Cúc, Sau dãy nhà lầu. Sau 1954 Ngọc Sơn chuyển qua viết TDK trinh thám kỳ tình Bàn tay máu (có tranh minh họa kèm theo) với bút hiệu Phi Long trên báo Sài Gòn Mới.

TDK tâm lý xã hội ăn khách nhất những năm 1950 là bà Tùng Long, bà Lan Phương. TDK của các nữ sĩ này đều có nhân vật chính là phụ nữ, thường gặp hoàn cảnh éo le nhưng đều vượt qua nghịch cảnh và kết truyện đều có hậu. Tất cả TDK của hai bà đều đề cao tình nghĩa gia đình, đề cao người phụ nữ nên đa số độc giả là nữ đều mê mẩn.

Sau năm 1965, nhật báo Sài Gòn có mấy cây viết phơi-dơ-tông nữ nổi tiếng: Túy Hồng, Lệ Hằng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn, bà Nguyễn Thị Hoàng cho biết trên bàn viết lúc nào cũng có hai… máy đánh chữ dành để viết hai truyện khác nhau cùng lúc. Khi viết bị bí truyện này thì nhảy sang viết truyện kia.

Không thua bà Tùng Long, Lan Phương, các cây bút nam giới cũng có Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc với những truyện dài về sông nước và con nguời Nam Bộ. Bình Nguyên Lộc đăng đoạn đầu TDK Phù sa, đăng trên báo Thanh Niên năm 1943 với tên Di dân lập ấp... Ngoài ra còn hàng chục cây bút khác. Bất ngờ nhất là nhà thơ Bùi Giáng cũng viết TDK... võ hiệp nhưng vì là nhà thơ nên Bùi tiên sinh đã thất bại trong việc viết TDK.

Phải biết “câu rê”, “nhử” độc giả

Không dễ dàng gì để trở thành một người viết TDK ăn khách nếu không biết kỹ thuật “câu rê”. Một bí quyết gọi là “nhà nghề” của Phú Đức là ông viết đến chỗ gay cấn thì cắt ngang, bắt độc giả chờ ngày mai đọc tiếp. Nam Đình thì ra sạp báo lén nghe ý kiến người đọc để sửa chữa và bổ khuyết cho nhân vật. Viết dài hay ngắn đoạn nào đó là tùy theo sự thích thú của bạn đọc.

“Câu rê” thuộc loại cao thủ là Lê Xuyên. Trong TDK Chú Tư Cầu, tác giả này cho nhân vật nam từ lúc tay run run chuẩn bị mở nút “bóp” (một loại nút áo bà ba miền Nam) cho đến lúc mở được đã kéo dài 15 kỳ nhờ vào kỹ thuật viết đối thoại bằng những từ bình dân Nam Bộ, linh động và hấp dẫn.

Ngoài ra, một yếu tố quan trọng để một TDK thành công là tính chất giáo dục, nhân văn. Dù luôn đặt yếu tố hấp dẫn, giải trí lên hàng đầu nhưng nội dung truyện vẫn là cái thiện thắng cái ác, ở hiền gặp lành. Họ thích nhân vật chính là thiếu nữ xinh đẹp, hiền hậu, con nhà nghèo - nghèo mà vẫn giữ được trong sạch - bị rơi vào những cảnh ngộ oan trái nhưng sau cùng vượt thắng được nghịch cảnh, gặp tình yêu. Hoặc nhân vật chính là một thiếu nữ con nhà giàu sang yêu một chàng trai nghèo nhưng lương thiện. Sau cùng tình yêu phải thắng, đôi tình nhân sau trăm cay, ngàn đắng sẽ thành vợ, thành chồng, sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi. Nếu truyện có tướng cướp thì tướng cướp sẽ hoàn lương. Nếu có kẻ giết người thì kẻ đó sẽ chết, đi tù hoặc đi tu để trả giá cho hành động của mình.

Đọc TDK, người đọc sẽ luôn thấy được sự hướng thiện của tác phẩm, những bài học đạo đức đến từ những niềm hạnh phúc, nỗi đau, cách xử thế của từng nhân vật. Tóm lại khi chữ Hết được đặt dưới TDK, người đọc đã tìm ra Chân, Thiện, Mỹ. Bà Tùng Long đã kể trong hồi ký: “Có lần tôi đang viết một câu chuyện dài, có chiều hướng không cho hai nhân vật yêu nhau đi đến hôn nhân, thì một buổi sáng vừa để cái cặp lên bàn, toan ngồi lại làm việc thì bà Bút Trà - chị dâu của tôi mà cũng là chủ nhiệm của báo Sài Gòn Mới lúc bấy giờ - cho người mời tôi vào và nói:

- Thím không định cho Yến và Thanh kết hôn sao?

Thấy tôi cười mà không trả lời thì chị tôi nói:

- Thím nên cho tụi nó kết hôn với nhau, như thế mới hợp tình hợp lý và mới đúng với cái tên tiểu thuyết mà thím đặt Gương vỡ lại lành.

Nhà văn hay nhà báo?

Dù những TDK trên các nhật báo đã làm say sưa bạn đọc nhưng người viết vẫn không được xem là nhà văn, thậm chí còn có khuynh hướng xem đây là “tiểu thuyết ba xu”. Khuynh hướng này đã có từ những nhà văn Pháp vào cuối thập niên thế kỷ 19. Nhà văn Pháp Eugène Sue với những tác phẩm nổi tiếng lúc ấy vẫn chỉ được xem là feuilletonniste chứ không gọi là nhà văn. Còn ở Sài Gòn thời ấy, theo Trần Quân (Hồi ký bà Tùng Long), “… Mặc dù không có một quyển sách nào của bà được các nhà phê bình đem ra phê bình như một tác phẩm văn học của những nhà văn được coi là trí thức lúc bấy giờ, chính bà Tùng Long cũng tự nhận mình không phải là một nhà văn…”.

Dù TDK có được xem là văn học hay không nhưng vào thập niên 1960, nhiều nhà văn miền Nam có số lượng sách khá đồ sộ nhờ viết TDK cho các nhật báo. Riêng bà Tùng Long cho biết đã xuất bản độ 70 bộ truyện dài và truyện vừa. TDK cũng làm các tác giả trở nên nổi tiếng, gần gũi với công chúng.

Ngay ở Mỹ, từng phần của truyện Love story ban đầu được đăng trên tạp chí The Ladies’ Home Journeyđã trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong năm 1970 tại Mỹ và được dịch ra hơn 20 thứ tiếng. Giống như Kim Dung với những bộ truyện võ hiệp, nếu hằng ngày không viết từng trang cho Minh Báo thì ông sẽ không thể có Trương Vô Kỵ, Vi Tiểu Bảo, Lệnh Hồ Xung. Nhà văn Sài Gòn cũng vậy. Mỗi tác giả đều có một gia tài tác phẩm đáng thèm muốn như nhà văn Võ Phiến nhận định: “Nhận viết truyện cho báo hằng ngày tức là ép mình vào một thế kẹt: Đã “dính” vào là bị lôi đi tuồn tuột, không thể dừng được”.

Công bằng mà nói, những TDK sau này được in thành sách do sự hấp dẫn của nó, không phải không có những quyển tiểu thuyết có giá trị. Đóng góp vào sự giàu có của văn học miền. Những tác giả, những quyển tiểu thuyết còn “sống” đến hôm nay, được độc giả và các nhà phê bình văn học nhắc đến chứng tỏ nó đã vượt qua cái ngưỡng oan nghiệt của cụm từ “phơi-dơ-tông”. Thời gian và văn học sử sẽ đem lại sự công bằng cho họ, cho một chuyên mục báo chí đã từng một thời gây mưa gió trong nền báo chí Việt Nam.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm