Những “kẽ hở” của Luật Báo chí

Tại Hội nghị tổng kết tám năm thi hành Luật Báo chí vừa diễn ra tại Hà Nội, đại diện Báo Pháp Luật TP.HCM đã có tham luận về một số hạn chế của Luật Báo chí. Bài viết dưới đây lược trích từ bản tham luận.

Khiếu nại rồi vẫn kiện ra tòa

Trong trường hợp báo viết sai, hiện có ba cách hiểu khác nhau về quyền khởi kiện. Hiểu theo Luật Báo chí thì phải khiếu nại đến báo trước, sau đó mới khiếu nại lên trên hoặc kiện ra tòa án. Hiểu theo luật tố tụng dân sự thì không cần khiếu nại đến báo mà có quyền kiện thẳng đến tòa án. Bên cạnh đó là một cách hiểu khác: đã cải chính rồi là “xong việc”, không có quyền kiện ra tòa nữa.

Thế nhưng đã từng có báo phản ứng vì sao báo cải chính rồi, tòa lại tiếp tục thụ lý vụ kiện. Nhiều cách hiểu như thế khiến cả ba chủ thể là người bị báo nói sai, cơ quan báo chí và cả tòa án lúng túng, gặp khó khi muốn kiện, xử lý vụ kiện.

Thế nào là chứng cứ?

Nhiệm vụ của báo chí là thông tin trung thực. Thế nhưng trong nhiều trường hợp, chứng cứ của báo chí thu thập không thể rõ ràng, giấy trắng mực đen, nhìn thấy, sờ thấy được như chứng cứ trong tố tụng. Khi bị kiện, khả năng chứng minh của báo chí thường không cao. Ví dụ: Báo nói bà A tức giận bỏ cuộc họp. Bà ấy kiện, nói “Tôi có bỏ cuộc họp nhưng không tức giận”. Thế là báo thua. Băng ghi âm khi ra tòa cũng có thể bị bác, không công nhận tính xác thực.

Một khía cạnh khác: thông tin phải có nguồn, có căn cứ nhưng không rõ nguồn nào, căn cứ nào thì được chấp nhận. Có mấy loại: văn bản, tài liệu của cơ quan, tổ chức; phát ngôn của cá nhân có thẩm quyền; phản ánh của công dân. Ví dụ trường hợp: Trưởng công an phường cho biết nhà đó có người bán ma túy, báo đăng rồi mới biết sai, bởi thực tế không có.

Điều 4 và Điều 7 Luật Báo chí quy định: Cá nhân, tổ chức có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin. Trách nhiệm này là gì, luật không nói rõ.

Những vấn đề như vậy đang là khoảng hở khiến báo chí vừa đăng bài vừa run. Báo chí bị áp lực rất lớn về nguy cơ bị kiện và thua kiện.

Đăng ảnh cá nhân: Hễ thích là kiện

Theo luật dân sự: Muốn sử dụng ảnh cá nhân phải được người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác. Nghị định 51 hướng dẫn thi hành Luật Báo chí thì quy định: Không được đăng, phát ảnh cá nhân mà không có chú thích rõ ràng làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó (trừ ảnh thông tin các buổi họp công khai, sinh hoạt tập thể, các buổi lao động, biểu diễn nghệ thuật, thể dục thể thao, những người có lệnh truy nã, các buổi xét xử công khai của tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án đã bị tuyên án.

Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có giải thích thế nào là “vì lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng”. Đưa ảnh một kẻ trộm, một quan chức tham ô, một giám đốc cố ý làm trái... để mọi người cảnh giác, để răn đe, phòng ngừa chung có phải là vì lợi ích công cộng, vì lợi ích của nhà nước?

Buộc báo chí phải xin phép những người này thì thật là vô lý nhưng nếu không xin phép, họ có thể viện dẫn luật dân sự để kiện báo.

Với hướng dẫn của Nghị định 51, liệu có thể hiểu là báo chí được đăng tất, miễn sao có chú thích rõ ràng để không làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó?

Riêng ảnh ở các phiên xử công khai, báo có được đăng ảnh đặc tả bị cáo hay chỉ được đăng ảnh quang cảnh phiên tòa? Ảnh đương sự trong các vụ án dân sự, lao động, kinh tế, hành chính thì sao? Khái niệm “trọng án” hết sức mù mờ, không có trong luật hình sự. Vậy đối với bị cáo thường thì sao?

Tháng 7-2005, tại một tòa án cấp quận ở TP.HCM, thư ký và chủ tọa không cho phóng viên chụp ảnh bị cáo. Báo Pháp Luật TP.HCM phản ánh và mở diễn đàn. Có hai luồng ý kiến khác nhau. Một luồng cho rằng tòa xử công khai, phóng viên có quyền chụp ảnh và đưa lên báo. Bên còn lại cho rằng dù họ là bị cáo, ra tòa cũng phải tôn trọng quyền nhân thân của họ. Việc sử dụng có thể gây tổn hại danh dự, nhân phẩm, uy tín của bị cáo.

Sau nhiều ý kiến tranh cãi trên, lãnh đạo Tòa án TP.HCM tạm gút: Được phép chụp ảnh tại tòa nhưng sử dụng thế nào là do báo, báo chịu trách nhiệm. Lãnh đạo TA tối cao thì nói có thể phải phân làm hai loại: loại bị cáo đồng ý cho chụp thì mới được chụp, loại phục vụ việc tuyên truyền cho nhân dân thì dù bị cáo không đồng ý vẫn được chụp. Vị này nói sẽ phối hợp với Bộ Văn hóa-Thông tin ra thông tư liên tịch để hướng dẫn việc tác nghiệp của báo chí tại các phiên tòa, trong đó có chuyện chụp ảnh, sử dụng ảnh nhưng đến nay vẫn chưa có.

Mênh mông danh mục bí mật

Báo chí không được tiết lộ bí mật nhà nước. Nhưng bí mật nhà nước bao gồm những gì, ít ai trong chúng ta nắm tường tận, đầy đủ. Chúng tôi đã sưu tầm được 46 văn bản quy định danh mục bí mật nhà nước của các bô, ngành ban hành trong các năm 2002-2004. Nhưng đọc vào thấy hết sức mênh mông.

Báo chí cũng không được xâm phạm bí mật đời tư. Có nghĩa là muốn thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân thì phải được người đó đồng ý. Nhưng chưa có một định nghĩa rõ ràng thế nào là bí mật đời tư, phạm vi bao gồm những gì cũng không rõ.

Có vụ đương sự trong một vụ ly hôn cãi lý: Tôi nói vợ tôi ngoại tình là nói với tòa, để tòa xử cho tôi ly hôn chứ không nói với nhà báo, nhà báo đưa chi tiết này là xâm phạm đời tư của tôi. Vụ này nhà báo thua.

Để né chuyện bị kiện tụng rắc rối, các báo thường viết tắt tên, đổi tên đương sự nhưng nhiều khi vẫn lộ, vẫn có cơ sở để quy trách nhiệm. Ở các nước, người ta có khái niệm “người của công chúng”. Những người này phải chịu sự giám sát thường trực của công luận, báo chí không phải xin phép khi đưa ảnh cá nhân, nêu chuyện riêng tư. Nên chăng chúng ta nghiên cứu thêm vấn đề này.

 

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm