Cảnh sát cơ động có nhiệm vụ chống bạo loạn, khủng bố, bắt cóc con tin...

Cảnh sát cơ động. (Nguồn: commons.wikimedia.org)
Cảnh sát cơ động

Pháp lệnh Cảnh sát cơ động được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 23/12/2013, gồm năm chương, 24 điều, có hiệu lực thi hành từ 1/7/2014.

Pháp lệnh quy định về vị trí, chức năng; nguyên tắc hoạt động, xây dựng lực lượng của cảnh sát cơ động; nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức của cảnh sát cơ động; trách nhiệm của Tư lệnh Cảnh sát cơ động và Giám đốc Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; quy định về điều động cảnh sát cơ động và sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ của cảnh sát cơ động... 

Trên cơ sở xác định vị trí, chức năng cảnh sát cơ động thuộc Công an Nhân dân, là lực lượng nòng cốt thực hiện biện pháp vũ trang bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

Theo Pháp lệnh, cảnh sát cơ động có trách nhiệm tham mưu cho Đảng ủy Công an Trung ương và Bộ Công an về công tác vũ trang bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; thực hiện phương án tác chiến chống hoạt động phá hoại an ninh, bạo loạn vũ trang, khủng bố, bắt cóc con tin; trấn áp tội phạm có sử dụng vũ khí... 

Về tổ chức, cảnh sát cơ động gồm bốn lực lượng là lực lượng đặc nhiệm; lực lượng tác chiến đặc biệt; lực lượng bảo vệ mục tiêu; lực lượng huấn luyện và sử dụng động vật nghiệp vụ, được tổ chức theo mô hình Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động và Cảnh sát cơ động Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Ngoài chế độ chính sách chung đối với công an nhân dân, cảnh sát cơ động còn được hưởng chính sách ưu đãi đặc thù theo tính chất, nhiệm vụ, địa bàn hoạt động. Cảnh sát cơ động công tác ổn định lâu dài ở địa bàn đóng quân độc lập được bố trí nhà ở công vụ.

Với năm chương, 42 điều, Pháp lệnh trình tự thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án Nhân dân được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 20/1/2014 và có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.

Những trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã lập hồ sơ để xem xét hoãn, miễn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính, giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại nếu đến ngày Pháp lệnh có hiệu lực mà chưa giải quyết sẽ áp dụng quy định của Pháp lệnh này.

Pháp lệnh đã thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp và cải cách hành chính đã được xác định trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng; bảo đảm trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính chặt chẽ, nhanh gọn, khả thi; đồng thời tăng cường tính công khai, minh bạch, công bằng, dân chủ trong quá trình xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; bảo đảm các quyền cơ bản của công dân, quyền con người, đặc biệt là quyền của người chưa thành niên trong quá trình xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính.

Pháp lệnh quy định Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính là Tòa án cấp huyện nơi cơ quan đề nghị có trụ sở; Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền xét lại quyết định của tòa án cấp huyện bị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị. Thời hạn xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính là 15 ngày, kể từ ngày tòa án thụ lý hồ sơ đề nghị của cơ quan có thẩm quyền; đối với vụ việc phức tạp, thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày...

Theo TTXVN

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm