Tăng quyền hạn, mở rộng nghĩa vụ

Tối thiểu năm năm kinh nghiệm

Ngày 28-10, Ủy ban thường vụ Đại hội đại biểu toàn quốc kỳ 10 của Trung Quốc đã thông qua Luật Luật sư sửa đổi (có hiệu lực từ ngày 1-6-2008). Tại Trung Quốc trước nay có ba loại hình văn phòng luật sư (VPLS): VPLS của nhà nước, VPLS của nhà nước hợp tác với luật sư và VPLS của luật sư hợp tác với nhau.

Luật Luật sư mới sửa đổi vẫn giữ những quy định trước đây đối với VPLS của nhà nước nhưng không còn bảo lưu những quy định đối với VPLS của nhà nước hợp tác với luật sư do các VPLS này ngày càng biến mất. Theo thống kê, Trung Quốc có tổng cộng hơn 13.000 VPLS, trong đó trên 70% (9.200 VPLS) là văn phòng của luật sư hợp tác với nhau.

Điểm mới trong luật lần này là cho phép cá nhân được mở văn phòng dịch vụ luật sư. Để được phép mở VPLS, cần phải có tên văn phòng, trụ sở, điều lệ, tài sản phù hợp quy định. Người thành lập VPLS phải là luật sư có ít nhất năm năm kinh nghiệm làm việc thực tế (trước đây là ba năm) và phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với nợ nần của VPLS.

Luật mới cũng xác định hai hình thức hợp tác tổ chức VPLS: Hợp tác phổ thông (các thành viên sáng lập có trách nhiệm vô hạn với nợ nần của văn phòng) và hợp tác đặc thù (các thành viên có trách nhiệm hữu hạn với nợ nần của văn phòng).

Trước đây, luật sư hợp tác với nhau thành lập VPLS phải chịu trách nhiệm vô hạn với nợ nần và chịu trách nhiệm liên đới. Nay, những người hợp tác sẽ chỉ xác định trách nhiệm nợ nần căn cứ vào hình thức hợp tác.

Năm biện pháp quản lý

1. Tiêu chuẩn vào ngành. Khi đăng ký vào ngành luật sư, người đăng ký phải có giấy chứng nhận thi tư pháp thống nhất quốc gia, giấy chứng nhận đã đậu cuộc thi sát hạch thực tập do Hiệp hội Luật sư cấp, chứng minh thư, giấy chứng nhận đồng ý tiếp nhận của VPLS... Người muốn kiêm nhiệm nghiệp vụ luật sư ngoài những giấy tờ trên còn phải nộp giấy cho phép kiêm nhiệm của đơn vị đang công tác.

2. Tăng cường quy phạm nghiệp vụ. Luật sư không được làm người đại diện cho hai bên trong cùng một vụ án hoặc tác nghiệp có lợi cho bản thân hoặc người thân. Luật sư từng đảm nhiệm chức vụ chánh án, quan chức ngành kiểm sát không được làm người đại diện hoặc người biện hộ trong các vụ tố tụng trong vòng hai năm kể từ khi rời viện kiểm sát, tòa án.

Luật sư không được nhận tiền của hoặc lợi ích khác từ đương sự đối phương; không được câu kết ác ý với người thứ ba hoặc đương sự đối phương để xâm hại lợi ích của người ủy thác cho mình; không được tiếp xúc phi pháp với chánh án, quan chức ngành kiểm sát, trọng tài và các nhân viên công tác liên quan khác.

3. Tăng cường quản lý đối với VPLS: Các VPLS phải kiện toàn chế độ quản lý nghiệp vụ và tài vụ, thẩm tra xung đột lợi ích, kiểm tra tố tụng, thi sát hạch hàng năm và phải giám sát tình hình tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, chấp hành kỷ luật nghề nghiệp của các luật sư trong VPLS.

Sau mỗi kỳ thi sát hạch hàng năm, phải nộp báo cáo tình hình chấp hành nghiệp vụ và kết quả thi sát hạch lên các cơ quan hành chính tư pháp thuộc chính quyền trực thuộc thành phố hoặc cấp thành phố. VPLS thống nhất tiếp nhận ủy thác, ký kết hợp đồng ủy thác với người ủy thác đồng thời thu lệ thí theo quy định. VPLS không được tham gia kinh doanh gì khác ngoài dịch vụ luật sư.

4. Tăng cường mức xử phạt đối với hành vi vi phạm của luật sư và VPLS, gồm các hình thức cảnh cáo, phạt hành chính, ngừng hoạt động để chỉnh đốn, hủy giấy chứng nhận hoạt động nghiệp vụ luật sư, hủy giấy chứng nhận hoạt động VPLS, truy cứu trách nhiệm hình sự.

5. Phát huy tác dụng tự kỷ luật nghề nghiệp của Hiệp hội Luật sư. Luật Luật sư mới sửa đổi đã bổ sung trách nhiệm của Hiệp hội Luật sư, gồm chế định quy phạm hành nghề và quy tắc trừng trị vi phạm, thi sát hạch nghiệp vụ đối với luật sư, tổ chức quản lý hoạt động thực tập của những người đăng ký vào ngành luật sư, thi sát hạch đối với nhân viên thực tập, thưởng phạt đối với luật sư và VPLS, xử lý các vụ án kiện cáo luật sư.

Luật Luật sư mới sửa đổi nêu rõ các quy định về quyền hạn chuyên môn của luật sư trong tố tụng như hội kiến, nghiên cứu, điều tra thu thập chứng cứ, biện hộ.

Luật sư có quyền tìm hiểu vụ án, tra cứu, sao chép và in sao tài liệu vụ án. Luật sư có quyền gặp nghi phạm, bị cáo sau khi cơ quan điều tra thẩm vấn lần đầu hoặc áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Trong khi gặp, luật sư không bị giám sát nghe nhìn.

Về nghĩa vụ bảo mật, luật sư phải giữ kín bí mật quốc gia, bí mật thương mại thu thập được trong quá trình hoạt động nghiệp vụ, không được tiết lộ đời tư đương sự. Luật sư cũng phải giữ bí mật thông tin của người ủy thác và những người không muốn tiết lộ, ngoại trừ thông tin và sự thật phạm tội mà người ủy thác hoặc những người khác chuẩn bị hoặc đang tiến hành gây nguy hiểm đến an toàn tài sản, thân thể người khác, an toàn xã hội và an ninh quốc gia.

PHƯƠNG TUYẾN (Theo Tân Hoa xã)

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm