Quan điểm bất nhất, án bị kháng nghị hủy

Theo đó, bản án phúc thẩm bị tạm đình chỉ thi hành án cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm.

Theo kháng nghị, tòa phúc thẩm chỉ mới dựa vào công văn của UBND quận trả lời diện tích đất đang tranh chấp không xác định được có đưa vào tập đoàn hay không mà không thu thập thêm tài liệu, chứng cứ khác để làm rõ vấn đề. Lời khai của các nhân chứng về việc này cũng có mâu thuẫn. Trong trường hợp diện tích đất đang tranh chấp không được đưa vào tập đoàn thì cần phải xác định có hay không việc tặng, cho đất giữa hai cha con nguyên đơn cũng như quan hệ hôn nhân giữa cha nguyên đơn với bà L. để chia thừa kế. Có như vậy mới có thể giải quyết triệt để vụ án.

Theo đơn kiện ban đầu, ông C. được cha cho một mảnh đất và ông đã sử dụng trồng lúa, dừa, tràm vàng và cột trâu từ năm 1975. Năm 1999, cha ông ký giấy cho ông kê khai đăng ký sử dụng. Đến năm 2002, phát hiện bà L. (chung sống như vợ chồng với cha ông) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng mảnh đất này nên ông khiếu nại. Tại các buổi hòa giải, ban đầu bà L. đồng ý trả lại đất, sau lại đổi ý. Năm 2005, bà L. chết, các con bà không đồng ý trả đất nên ông C. khởi kiện đòi lại.

Trong quá trình tòa giải quyết vụ án, phía bị đơn cho rằng nguồn gốc đất là của cha ông C. Sau đó toàn bộ đất được đưa vào tập đoàn rồi tập đoàn cấp lại cho bà L. canh tác. Gia đình bà L. canh tác, sử dụng, đăng ký kê khai và đóng thuế đầy đủ. Ông C. không ở trên đất, không đóng thuế nên phía bị đơn không đồng ý trả lại cho ông.

Ông C. lý giải phần đất này là đất gò, sản xuất không hiệu quả nên Nhà nước không đưa vào tập đoàn mà để lại cho cha ông làm kinh tế gia đình. Ông sử dụng liên tục từ năm 1975 đến 2007 thì ngưng theo yêu cầu của địa phương. UBND quận 9 không xác định được đất tranh chấp có được đưa vào tập đoàn sản xuất và khi tập đoàn tan rã, đất có được cấp cho bà L. hay không nên việc ông đòi lại đất là có cơ sở.

Xử sơ thẩm tháng 12-2011, TAND quận 9 tuyên buộc các đồng bị đơn trả lại phần đất đang tranh chấp cho ông C. vì có cơ sở xác định đây là đất của ông. Một năm sau, TAND TP.HCM xử phúc thẩm đã bác yêu cầu đòi đất của nguyên đơn. Theo tòa này, thực tế phần đất đang tranh chấp do hộ bà L. sử dụng, có đóng thuế, được xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng theo đúng quy định. Ông C. khai được cho đất, sử dụng từ năm 1975 và ông đã kê khai phần đất này vào năm 1999 nhưng trước đó, năm 1988 bà L. đã được cấp giấy chứng nhận.

HOÀNG YẾN

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm