Tranh cãi thế nào là người già cô đơn

Gần đây, Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại TP.HCM đã xử giám đốc thẩm một vụ án gây nhiều tranh cãi về việc thế nào là người già cô đơn.

Cháu kiện đòi hủy quyết định nuôi con nuôi của cô

Theo hồ sơ, năm 1988, cụ Nguyễn Thị Huệ (SN 1928) gặp bà Lê Thị Bé Âu (SN 1968) khi làm công quả trong chùa. Một năm sau, cụ Huệ đưa bà Âu về ở chung với cụ ở phường 1, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Cụ Huệ không chồng, không con nên nhận bà Âu làm con nuôi. Tháng 5-1999, UBND xã Tân Hòa, huyện Lai Vung, Đồng Tháp (nơi bà Âu sống trước đó) ra quyết định công nhận việc nuôi con nuôi giữa cụ Huệ và bà Âu.

Tháng 7-1999, bà Âu nhập hộ khẩu vào nhà cụ Huệ. Đến tháng 8-2015 thì cụ Huệ mất. Tháng 1-2016, một người cháu ruột của cụ đã khởi kiện yêu cầu TAND huyện Lai Vung hủy quyết định công nhận nuôi con nuôi của UBND xã Tân Hòa vì cho rằng “tại thời điểm nhận nuôi con nuôi, bà Âu đã 31 tuổi, không phải trẻ em; còn cụ Huệ thì không phải người già cô đơn do không có xác nhận của địa phương”.

Cháu cụ Huệ cung cấp xác nhận của một cán bộ công an phường (đã nghỉ hưu) rằng từ năm 1999 đến năm 2001, khi ông làm cảnh sát khu vực thì hộ cụ Huệ có hai người em ruột của cụ tạm trú. Người khởi kiện cũng nộp một văn bản trả lời của UBND phường 1, TP Vũng Tàu cho biết năm 1999 cụ Huệ không có tên trong danh sách người già cô đơn tại phường.

Bên bị kiện - UBND xã Tân Hòa cho biết xã đã xét đơn xin nhận trẻ làm con nuôi và giấy thỏa thuận cho trẻ làm con nuôi để ra quyết định công nhận nuôi con nuôi. Dựa vào độ tuổi và hộ khẩu thì từ thời điểm năm 1999, trong gia đình cụ Huệ ở TP Vũng Tàu chỉ có cụ Huệ và bà Âu, ngoài ra không còn ai khác. Các giấy tờ, thủ tục liên quan để ra quyết định này đã qua nhiều năm nên bị thất lạc nhưng hiện vẫn còn sổ lưu đăng ký nhận nuôi con nuôi năm 1999 tại UBND xã.

Bà Lê Thị Bé Âu, người con nuôi 31 tuổi của cụ Nguyễn Thị Huệ. Ảnh: PL

Tòa sơ, phúc thẩm: Bác đơn kiện

Sau đó, TAND huyện Lai Vung và TAND tỉnh Đồng Tháp đều chung nhận định: Yêu cầu hủy quyết định nuôi con nuôi của cháu cụ Huệ là không có căn cứ. Bởi lẽ từ năm 1998 đến nay, bà Âu vẫn sống tại nhà cụ Huệ, đang là người thờ cúng cụ Huệ. Từ thời điểm năm 1999, trong gia đình cụ Huệ chỉ có cụ Huệ và bà Âu, ngoài ra không còn ai.

Cũng theo hai cấp tòa sơ, phúc thẩm, giấy xác nhận của cựu cảnh sát khu vực và văn bản trả lời của phường không phải là chứng cứ.

Xác nhận của cựu cảnh sát khu vực không đảm bảo tính chính xác, không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh nên không thể làm căn cứ để giải quyết vụ án. Nếu hai người em có tạm trú tại nhà cụ Huệ cũng không xác định được cụ Huệ không phải là người già không cô đơn.

Xác nhận của phường về việc cụ Huệ không có tên trong danh sách người già cô đơn mục đích là để quản lý và hỗ trợ chính sách người già ở địa phương, còn việc thực hiện các thủ tục hành chính để nhận nuôi con nuôi chưa có quy định ràng buộc là phải có tên trong danh sách hay không. Việc nhận nuôi con nuôi, cụ Huệ trực tiếp ký tên vào sổ, xã còn lưu giữ. Hồ sơ tuy bị thất lạc nhưng phù hợp nguyện vọng của cụ Huệ. Thủ tục xã còn thiếu sót so với quy định nhưng phù hợp hoàn cảnh và đúng nguyện vọng, có sổ lưu để quản lý.

Từ đó, hai cấp tòa đã bác đơn khởi kiện của cháu cụ Huệ.

Cấp giám đốc thẩm: Hủy án để xử lại

Gần đây, Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại TP.HCM xử giám đốc thẩm vụ án đã có những nhận định trái ngược.

Theo cấp giám đốc thẩm, quyết định nhận nuôi con nuôi của UBND xã Tân Hòa có nhiều sai sót về hình thức, thủ tục ban hành, đồng thời không đúng quy định của pháp luật về nhận nuôi con nuôi như số quyết định đặt không đúng vị trí, số CMND trên quyết định có dấu hiệu cạo sửa, phó chủ tịch xã ký thay chủ tịch mà thiếu chữ “KT” (ký thay).

Mặt khác, theo Điều 35 Nghị định 83/1998 của Chính phủ (về đăng ký hộ tịch), thẩm quyền đăng ký nhận nuôi con nuôi thuộc UBND cấp xã nơi cư trú của người xin nhận nuôi con nuôi hoặc của người được nhận làm con nuôi. Nơi thường trú, tạm trú của cụ Huệ và bà Âu đều là phường 1, TP Vũng Tàu nhưng UBND xã Tân Hòa, huyện Lai Vung lại ban hành quyết định nhận nuôi con nuôi là không đúng.

Ngoài ra, năm 1999 khi được nhận làm con nuôi, bà Âu đã 31 tuổi. Theo Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình 1986, cụ Huệ được nhận bà Âu làm con nuôi trong trường hợp cụ là người già yếu, cô đơn. Tuy nhiên, cụ lại không có tên trong danh sách người già cô đơn của địa phương. Một người làm cảnh sát khu vực nơi cụ Huệ sinh sống, nay đã về hưu cũng xác nhận khi đó trong nhà cụ Huệ có nhiều người sống với cụ. Như vậy, không đủ điều kiện để cụ Huệ nhận người đã 31 tuổi làm con nuôi…

Từ các nhận định trên, cấp giám đốc thẩm tuyên hủy hai bản án sơ, phúc thẩm để xét xử lại từ đầu. Chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin khi vụ việc có diễn tiến mới.

Chỉ có thể hủy thông qua tố tụng dân sự

Theo luật sư của bà Lê Thị Bé Âu, không có quy định pháp luật nào bắt buộc người già cô đơn khi làm thủ tục nhận con nuôi phải có tên trong danh sách người già cô đơn tại UBND phường nơi cư trú. Công an TP Vũng Tàu đã có văn bản xác nhận hộ khẩu của cụ Huệ vào thời điểm nhận nuôi con nuôi chỉ có duy nhất cụ Nguyễn Thị Huệ nhưng cấp giám đốc thẩm lại sử dụng xác nhận của cảnh sát khu vực đã về hưu hơn 10 năm làm căn cứ giải quyết vụ án là không ổn.

Việc nhận con nuôi của cụ Huệ được đăng ký hợp pháp cách đây 20 năm. Hai mẹ con chung sống, đùm bọc nhau từ năm 1999 cho đến khi cụ Huệ qua đời. Quan hệ mẹ nuôi-con nuôi tồn tại trên thực tế và nhiều quan hệ dân sự khác đã phát sinh liên quan đến quan hệ này. Điều 10 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định quan hệ nuôi con nuôi chỉ có thể bị tòa tuyên hủy thông qua thủ tục tố tụng dân sự. Việc cháu của cụ Huệ chờ đến khi cụ Huệ mất mới khởi kiện hành chính đòi hủy quan hệ con nuôi của cụ với bà Âu là không phù hợp với quy định pháp luật về thời hiệu khởi kiện cũng như người có quyền khởi kiện. Không thể dùng tố tụng hành chính và một bản án hành chính để hủy quan hệ dân sự về nuôi con nuôi...

Quy định liên quan

Người từ 15 tuổi trở xuống mới được nhận làm con nuôi. Trong trường hợp con nuôi là thương binh, người tàn tật hoặc làm con nuôi người già yếu cô đơn thì con nuôi có thể trên 15 tuổi.

Người nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên.

(Theo Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình 1986)

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm