Đòi tiền hoa hồng hay cưỡng đoạt tài sản?

Ngày 21-10, TAND thị xã Phước Long (Bình Phước) đã tuyên phạt bị cáo Lữ Mạnh Hùng (37 tuổi, ngụ phường Tân Bình, thị xã Đồng Xoài, Bình Phước) bốn năm tù về tội cưỡng đoạt tài sản.

Theo cáo trạng, Hùng là giám đốc Công ty Hùng Mạnh, chuyên môi giới đấu giá (trừ bất động sản). Năm 2011, Hùng quen biết với bà P.T.Th (ngụ thị xã Phước Long, Bình Phước). Tháng 10-2013, biết bà Th. đang cần hơn 3,9 tỉ đồng trả cho ngân hàng để chuyển qua vay vốn tại ngân hàng khác, Hùng giới thiệu một người khác (chưa rõ nhân thân) có thể lập hồ sơ vay tiền cho bà Th.

Hùng yêu cầu bà Th. đưa hồ sơ vay vốn gồm giấy đỏ, giấy phép kinh doanh, sổ hộ khẩu, CMND… để Hùng liên lạc với ngân hàng vay vốn. Sau đó Hùng gặp và đưa hồ sơ cho một cán bộ Ngân hàng S. Ngày 3-11-2013, Ngân hàng S. đến nhà bà Th. để thẩm định tài sản. Sau đó ngân hàng đồng ý cho bà Th. vay 5,4 tỉ đồng.

 
Bị cáo Lữ Mạnh Hùng tại tòa. Ảnh: NĐ

Sau khi bà Th. vay được tiền, Hùng yêu cầu trả tiền công “môi giới” là 162 triệu đồng nhưng bà Th. không đồng ý. Do biết nhà bà Th. chỉ có hai mẹ con nên Hùng đe dọa bắt cóc con gái và tìm bà Th. để xử lý. Sau nhiều lần đe dọa, ngày 20-11-2013, bà Th. hẹn Hùng đến nhà để lấy tiền. Đúng hẹn, bà Th. đưa cho Hùng 124 triệu đồng (đã trừ 38 triệu đồng mà Hùng nợ trước đó) thì Công an thị xã Phước Long ập vào bắt Hùng. Hùng bị tạm giam đến ngày 27-1-2014 thì được tại ngoại.

Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 20-10-2014, bị cáo Hùng liên tục kêu oan. Bị cáo cho rằng đây chỉ là giao dịch dân sự để bị cáo hưởng hoa hồng. Do người bị hại đã khéo léo “cài bẫy” để bị cáo vướng vào vòng lao lý. Cơ quan tố tụng đã hình sự hóa một vụ việc mang tính dân sự. Bị cáo Hùng cũng thừa nhận do lo lắng bị bà Th. “lật kèo”, không trả tiền hoa hồng nên có nói: “Bà không trả số tiền đó thì sẽ không yên với tôi”. “Về mặt ý thức, bị cáo không hề có lời lẽ đe dọa như cáo buộc của VKS và tố cáo của bà Th.” - bị cáo Hùng nói.

Bà Th. (tham gia phiên tòa với tư cách là người bị hại) khai: Hồ sơ của cơ quan điều tra chưa thể hiện đúng số tiền mà Hùng chiếm đoạt. Theo người bị hại, bị cáo Hùng yêu cầu trả 10% trong tổng số 5,4 tỉ đồng chứ không phải 3%. Nhưng Hùng yêu cầu đưa 3% tiền mặt (162 triệu đồng) và số tiền còn lại 7 % (378 triệu đồng) phải chuyển vào tài khoản của Hùng.

Trong khi đó, bản kết luận điều tra bổ sung nêu rõ: “Quá trình điều tra cũng xác định bị can Hùng chỉ thừa nhận hù dọa để bà Th. trả 3% trên tổng số tiền 5,4 tỉ đồng, chứ không phải 10% như lời bà Th. tố cáo”.

Kết thúc phiên tòa ngày 20-10-2014, HĐXX TAND thị xã Phước Long cho rằng cần tiến hành đối chất giữa người bị hại và bị cáo, xác minh thời điểm, nội dung, thời gian các cuộc điện thoại gọi đến số của người bị hại. Cuối cùng, tòa tuyên trả hồ sơ để tiếp tục điều tra bổ sung.

Tại kết luận điều tra bổ sung sau đó (tháng 11-2014), Cơ quan CSĐT Công an thị xã Phước Long cho rằng không có căn cứ tiến hành đối chất vì giữa các nhân chứng và Hùng không quen biết hay gặp mặt mà chỉ nghe giọng nói qua điện thoại. Đồng thời quá trình điều tra Công an thị xã Phước Long cũng không xác định được số cuộc gọi, nội dung… của Hùng cho bà Th. Cơ quan CSĐT cho rằng “quá trình điều tra Công ty Viễn thông Bình Phước (VNPT) và Chi nhánh Viettel Bình Phước không cung cấp được”.

Tại phiên tòa ngày 21-10, TAND thị xã Phước Long nhận định cáo trạng truy tố bị cáo Hùng như thế là có căn cứ và đúng quy định pháp luật. Tòa xử phạt Hùng bốn năm tù.

Bị cáo Hùng cho biết sẽ kháng cáo kêu oan, phía bà Th. cũng nói sẽ kháng cáo để làm rõ việc bỏ lọt tội phạm đối với những người có liên quan.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm