Dâu cũ đòi chia đất của cha chồng cho trong thời kỳ hôn nhân

TAND Cấp cao tại TP.HCM vừa bác kháng cáo, tuyên y án vụ chia tài sản chung vợ chồng sau ly hôn giữa bà NTNH và ông LHT.
Phiên tòa được mở do bà H kháng cáo đề nghị sửa án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu được quyền sở hữu căn nhà số 01 gắn liền với quyền sử dụng đất một phần thửa 994 và 995 tại xã Long Trạch, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Bà sẽ hoàn lại giá trị đất theo quy định pháp luật.
Bà không đồng ý việc công nhận sự thỏa thuận của thừa kế của cha chồng đã mất đồng quyền sử dụng hai thửa đất trên.

TAND Cấp cao tại TP.HCM đã bác kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm. Ảnh: H.YẾN

Đứng đơn khởi kiện, bà H cho là khi còn là vợ chồng với ông T có tạo lập một số tài sản chung gồm thửa đất số 994 diện tích 76mvà thửa đất số 995 diện tích 236m2. Nguồn gốc đất là của cha chồng cho vợ chồng bà. Ông T sử dụng từ năm 1997 đến năm 2009 thì ông được đứng tên trên giấy chứng nhận.
Trên đất có căn nhà số 01 được xây dựng năm 2007 và các căn nhà, mái che tiền chế xây năm 2013, hồ nước và nhà vệ sinh.
Sau khi ly hôn, tất cả các tài sản này do ông T quản lý, nay bà yêu cầu chia tài sản chung. Vật kiến trúc có trên phần đất của ai được chia thì người đó được quyền sở hữu. Nếu giá trị tài sản bà được chia nhiều hơn thì bà đồng ý hoàn phần chênh lệch.
Xử sơ thẩm, TAND tỉnh Long An chỉ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện. Cụ thể là chia cho ông T nhận và được quyền sở hữu các tài sản gồm căn nhà số 01 và mái che số 02. Bị đơn có nghĩa vụ thanh toán cho bà H gần 157,5 triệu.
Đồng thời, tòa bác yêu cầu khởi kiện về việc xác định các tài sản gồm: Quyền sử dụng đất thửa đất 995 và 994; mái che số 03, 04, 05, căn nhà số 06, 07, 08 và hồ tròn chứa nước là tài sản chung của bà H và ông T. Công nhận cho ông T được quyền sở hữu mái che số 03 và 04.
Tòa cũng công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa ông T và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng cha ông được đồng quyền sử dụng đất 189,2m2 thuộc 01 phần thửa 994 và 995. Những người này có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để kê khai, đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nguyên đơn và bị đơn liên đới trả cho vợ chồng em gái ông T số tiền 100 triệu đồng…
HĐXX phúc thẩm nhận định căn nhà số 01 diện tích 79,2m2 có giá trị gần 254 triệu tòa sơ thẩm xác định là tài sản chung của vợ chồng là có căn cứ.
Về kháng cáo của bà H xin được sử dụng căn nhà và hoàn lại tiền cho ông T, HĐXX xét thấy căn nhà số 01 được xây dựng năm 2007 trên một phần thửa đất 994. Bà H cho rằng các thửa đất số 994, 995 là của cha chồng cho vợ chồng bà. Ông T sử dụng từ năm 1997 đến năm 2009 thì ông được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trong khi ông T khai thửa 994, 995 là của cha mẹ cho ông. Dù ông đứng tên trên giấy chứng nhận nhưng thực tế cha mẹ vẫn là người trực tiếp quản lý, sử dụng, cho thuê nhà đất. Bà H không có chứng cứ chứng minh là cha mẹ chồng đã cho vợ chồng bà các thửa đất nói trên. Mặt khác, tại thời điểm xây dựng nhà số 01 năm 2007 thì các thửa đất này vẫn do cha chồng đứng tên chủ quyền. Đến năm 2009, cha chồng mới làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông T.
Bà H không có chứng cứ chứng minh ông T đồng ý nhập hai thửa đất này vào khối tài sản chung của vợ chồng. Do đó, không chấp nhận trình bày của bà H yêu cầu xác định hai thửa đất là tài sản chung của vợ chồng được tặng cho trong thời kỳ hôn nhân. Do căn nhà số 01 nằm trên thửa đất thuộc quyền sử dụng riêng của ông T nên Tòa án cấp sơ thẩm giao cho ông T nhận bằng hiện vật và có nghĩa vụ hoàn lại giá trị cho bà H là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm