Án dân sự: Xử sai là phải bồi thường?

Bộ Tư pháp vừa hoàn tất dự thảo báo cáo để trình Thủ tướng kết quả rà soát 124 văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) có liên quan đến việc thi hành BLTTDS 2015 (86 luật, pháp lệnh, 13 nghị quyết, 15 nghị định). Theo Bộ Tư pháp, qua kết quả rà soát thì một số VBQPPL vẫn còn nội dung chưa đảm bảo tính tương thích hoặc không đồng bộ, không thống nhất với quy định của BLTTDS 2015…

Pháp Luật TP.HCM xin lược trích một số nội dung đáng chú ý có liên quan đến Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009 (LTNBTCNN 2009).

Mở rộng phạm vi bồi thường nhà nước

Điều 6 BLTTDS 2015 quy định tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, LTNBTCNN 2009 không quy định trách nhiệm của cơ quan phải bồi thường trong việc hỗ trợ người bị thiệt hại thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến yêu cầu bồi thường. Vì vậy, Bộ Tư pháp kiến nghị bổ sung quy định trách nhiệm này của cơ quan có trách nhiệm bồi thường vào LTNBTCNN sửa đổi.

Cạnh đó, Điều 13 BLTTDS 2015 quy định người tiến hành tố tụng trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thì cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật đó phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Tuy nhiên, Điều 28 LTNBTCNN 2009 lại chỉ quy định bốn trường hợp được Nhà nước bồi thường trong hoạt động tố tụng dân sự. Đó là tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức; ra bản án, quyết định mà biết rõ là trái pháp luật hoặc cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án. Do đó, theo Bộ Tư pháp, cần sửa LTNBTCNN 2009 theo hướng Nhà nước có trách nhiệm bồi thường tất cả hành vi trái pháp luật gây thiệt hại của người tiến hành tố tụng trong khi thực hiện nhiệm vụ.

Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 113 BLTTDS 2015, nếu thẩm phán áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại thì tòa phải bồi thường. Trong khi đó, Điều 28 LTNBTCNN 2009 chỉ mới quy định về các trường hợp tại điểm a, b, c khoản 2 Điều 113 BLTTDS 2015 (tòa tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; tòa áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu; tòa áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cơ quan, tổ chức, cá nhân). Điều 28 LTNBTCNN 2009 chưa có trường hợp quy định tại điểm d khoản 3 Điều 113 BLTTDS 2015 (tòa áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thời hạn theo quy định hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không có lý do chính đáng) nên cần bổ sung vào LTNBTCNN sửa đổi.

Qua rà soát, Bộ Tư pháp cho biết cần bổ sung trình tự, thủ tục nhận, xử lý đơn kiện yêu cầu bồi thường nhà nước. Trong ảnh: Người dân làm thủ tục nộp đơn kiện tại TAND TP.HCM. Ảnh: HTD

Bổ sung trình tự, thủ tục nhận, xử lý đơn kiện

Về thủ tục tố tụng, LTNBTCNN 2009 cũng có nhiều điểm không tương thích với BLTTDS 2015 nên cần sửa đổi, bổ sung.

Cụ thể, Điều 191 BLTTDS 2015 quy định chi tiết trình tự, thủ tục nhận và xử lý đơn khởi kiện nhưng LTNBTCNN 2009 lại chưa quy định cụ thể. Khoản 1 Điều 193 BLTTDS 2015 quy định trường hợp đơn khởi kiện không có đủ các nội dung thì thẩm phán thông báo bằng văn bản nêu rõ những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung cho người khởi kiện để họ sửa đổi, bổ sung trong thời hạn do thẩm phán ấn định nhưng không quá một tháng. Thời hạn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện không tính vào thời hiệu khởi kiện. Trong khi đó, khoản 1 Điều 17 LTNBTCNN 2009 quy định khi nhận hồ sơ yêu cầu bồi thường, nếu hồ sơ không đầy đủ thì hướng dẫn người bị thiệt hại bổ sung. Như vậy, so với BLTTDS 2015, LTNBTCNN 2009 không quy định rõ thủ tục bổ sung hồ sơ như thế nào, bằng hình thức gì, cũng chưa rõ thời hạn thực hiện việc bổ sung có tính vào thời hiệu không…

BLTTDS 2015 quy định sau ba ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho đương sự và VKS cùng cấp biết. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 17 LTNBTCNN 2009 chỉ quy định thông báo bằng văn bản cho người bị thiệt hại mà không gửi thông báo về việc thụ lý cho cơ quan gây ra thiệt hại và cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường.

BLTTDS 2015 đã bổ sung quy định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, hậu quả của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, LTNBTCNN 2009 lại chưa có quy định tương thích.

Kiện dân sự hay hành chính?

Theo khoản 1 Điều 22 LTNBTCNN 2009, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn ra quyết định giải quyết bồi thường mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định hoặc kể từ ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định nhưng không đồng ý thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra tòa để yêu cầu giải quyết bồi thường. Còn theo khoản 2 Điều 23 luật này thì thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại tòa được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Từ các quy định trên, có thể hiểu một cách mặc định rằng người bị thiệt hại phải khởi kiện đòi bồi thường theo thủ tục tố tụng dân sự. Thời hạn để người bị thiệt hại thực hiện quyền khởi kiện tương đối ngắn là 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn ra quyết định giải quyết bồi thường mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định hoặc kể từ ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định nhưng không đồng ý.

Tuy nhiên, trong trường hợp người có trách nhiệm bồi thường là cơ quan hành chính nhà nước thì quyết định giải quyết bồi thường cũng là một quyết định hành chính. Vì vậy, người bị thiệt hại có quyền khởi kiện quyết định này theo con đường tố tụng hành chính. Trong trường hợp này, thời hiệu khởi kiện sẽ là một năm theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Có thể thấy LTNBTCNN 2009 chưa có sự tách bạch rõ việc khởi kiện yêu cầu tòa giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự hay theo thủ tục tố tụng hành chính. Về lý thuyết thì người bị thiệt hại có thể đồng thời khởi kiện theo cả hai con đường. Đây là điểm bất hợp lý mà LTNBTCNN 2009 cần sửa đổi để đảm bảo tương thích với các quy định pháp luật về tố tụng hiện hành.

ThS PHẠM NGỌC KIM LONG, Sở Tư pháp TP.HCM

Một số điểm không tương thích khác

Điều 364, 365 BLTTDS 2015 quy định về việc tòa trả lại đơn yêu cầu và thông báo thụ lý đơn yêu cầu. Trong khi đó, LTNBTCNN 2009 chưa có quy định cụ thể về nội dung văn bản thông báo thụ lý đơn yêu cầu bồi thường, gửi thông báo thụ lý này cho các cơ quan liên quan, việc thông báo từ chối thụ lý phải bằng văn bản.

Điều 371 BLTTDS 2015 quy định người yêu cầu, người liên quan đến việc giải quyết việc dân sự có quyền kháng cáo. Tuy nhiên, LTNBTCNN 2009 quy định chỉ người bị thiệt hại có quyền khiếu kiện quyết định giải quyết bồi thường.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm