Tàu 67- Những trăn trở khi mục tiêu chính chưa đạt được

Song thực tế triển khai cho thấy chính sách này đang gặp nhiều vướng mắc về cơ chế, quá trình tổ chức thực hiện. Nếu không kịp thời tháo gỡ, e rằng mục tiêu chính hướng đến của chính sách này sẽ khó đạt được như kỳ vọng.

Gian nan… tàu vỏ sắt

Theo số liệu mới nhất từ Bộ NN&PTNT, 27/28 tỉnh đã triển khai chương trình tín dụng phục vụ đóng mới, nâng cấp tàu cá theo Nghị định 67. Các ngân hàng thương mại (NHTM) đã ký hợp đồng tín dụng để đóng mới, nâng cấp 1.005 tàu, số tiền cam kết cho vay là 9.931 tỉ đồng, đã giải ngân cho vay 9.012 tỉ đồng. Trong đó, riêng Agribank đã phê duyệt hồ sơ và ký hợp đồng tín dụng đóng mới nâng cấp 580 tàu. Tổng số vốn cam kết cho vay là 4.855 tỉ đồng, dư nợ hiện tại 4.110 tỉ đồng.

Qua tìm hiểu thực tế triển khai Nghị định 67 tại Thanh Hóa, Nghệ An (hai tỉnh có số tàu cá lớn nhất) cho thấy tàu vỏ gỗ đưa vào sử dụng hoạt động ổn định, hiệu quả, ít bị hư hỏng, mỗi chuyến đi biển 10-20 ngày, thu nhập sau khi loại trừ chi phí đều có lãi; các chủ tàu đã trả nợ phân kỳ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi.  

Còn đối với tàu vỏ sắt, thực tế cho thấy loại tàu này đi vào hoạt động đã nảy sinh nhiều vấn đề. Thời gian đầu tàu thường xuyên bị hư hỏng máy phát điện, cẩu, tời, hầm bảo quản, bóng cao áp... buộc phải sửa chữa. Trong khi đó sự phối hợp giữa chủ tàu với các công ty đóng tàu chưa tốt, chưa đồng thuận về trách nhiệm các bên đối với sự cố xảy ra nên thời gian khắc phục sự cố kéo dài dẫn đến hiệu suất khai thác không cao.

Rủi ro trong kiểm soát dòng tiền

Với đặc thù của nghề biển hoạt động trên ngư trường rộng lớn, đánh bắt khắp nơi nên có lúc các chủ tàu thường bán hải sản nơi tàu ở gần tại nhiều cảng ở các địa phương khác nhau và neo đậu tàu tại các cảng lớn ở các địa phương. Điều này gây khó khăn cho NH trong việc kiểm tra, giám sát tài sản đảm bảo tiền vay và nguồn thu nhập của ngư dân để trả nợ NH. Trong khi đó NH không thể áp dụng được phương thức thanh toán không dùng tiền mặt vì thiết bị liên lạc trên biển của ngư dân chỉ có sóng 2G. Trên thực tế, sau ba năm triển khai đã xuất hiện tình trạng “lỗ thật thì ít, lỗ giả thì nhiều…

Bên cạnh đó, ngành đánh bắt hải sản trên biển phụ thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết, rủi ro cao, hoặc nếu vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của nước khác, hoặc tham gia buôn lậu trên biển… thì tài sản đảm bảo tiền vay có nguy cơ bị tổn thất.

Mục tiêu chính - bao giờ mới đạt được?

Để chính sách đạt được mục tiêu như kỳ vọng, Agribank đề xuất, kiến nghị:

-  Áp dụng chính sách ưu đãi có chọn lọc, ưu tiên mô hình tổ chức sản xuất có tính liên kết cao; áp dụng chính sách hỗ trợ một lần sau đầu tư. Cụ thể, chủ tàu phải là thành viên của tổ đội, hợp tác xã, nghiệp đoàn nghề cá, doanh nghiệp khai thác thủy sản; tàu phải được lắp đặt máy thông tin liên lạc tầm xa có tích hợp thiết bị vệ tinh (GPS) kết nối được trạm bờ..

- Gắn chặt trách nhiệm của ngư dân với con tàu và khoản vay bằng tài sản đảm bảo là bìa đất, nhà ở... đồng thời duy trì chính sách bảo hiểm đối với con tàu tương ứng với thời gian vay vốn theo quy định tại Nghị định 67.

- Đề nghị các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn, chỉ đạo triển khai tích cực, đồng bộ trong đầu tư cơ sở hạ tầng, đào tạo nghề, hướng dẫn kỹ thuật vận hành thiết bị; phối hợp giữa hiệp hội nghề cá, các mô hình, tổ đội đánh bắt thủy sản, dịch vụ hậu cần và các cơ quan chức năng để cùng các NHTM giám sát, quản lý việc tiêu thụ sản phẩm, quản lý dòng tiền của ngư dân để việc trả nợ được minh bạch và hiệu quả. Đồng thời cần có chính sách đủ mạnh để thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư khai thác, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm hải sản nhằm bảo đảm ổn định đầu ra và nâng cao giá trị sản phẩm. 

Ngoài ra, đối với những chủ tàu do nguyên nhân khách quan trong quá trình thực hiện dự án không còn đủ năng lực thực hiện dự án, đề nghị Chính phủ, UBND các cấp hướng dẫn/cho phép chủ tàu được chuyển nhượng lại tàu và bên nhận chuyển nhượng được hưởng các quyền và nghĩa vụ theo Nghị định 67.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm